Phương pháp xét nghiệm chẩn đoán giang mai

Giang mai là bệnh viêm nhiễm lây nhiễm trong con đường tình dục (STI), là do vi khuẩn Treponema pallidum dẫn tới. Xét nghiệm gần cụ thể là giải pháp duy nhất nhằm nhận biết bệnh. Chuyên gia 4 nguyên lý xét nghiệm giang mai nhận dạng giai đoạn bệnh trong bài viết sau đây.

Giang mai có nghiêm trọng không được phỏng đoán tùy thuộc vừa rồi thành quả xét nghiệm huyết thanh trong đã từng thời kỳ, chổ xoắn viêm nhiễm tấn công cùng với đối tượng mắc bệnh. Giang mai giai đoạn I cùng với II được biết đến không quá không tốt do có thể điều trị bằng thuốc. Nhưng, bệnh giang mai tiến triển sang bệnh giang mai kín, bệnh giang mai giai đoạn III, vẫn không được chữa hay chữa trị không đáp ứng vô cùng nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe.

Bệnh giang mai nghiêm trọng nhất khi xoắn viêm nhiễm Treponema pallidum tấn công hệ thần kinh, dẫn tới bệnh giang mai thần kinh, có thể xảy đến ở tất cả giai đoạn bệnh. Gây cảm giác đau đầu dữ dội, những vấn đề không tốt về cơ bắp cùng với sức khỏe tâm thần, mất trí nhớ.

Giang mai tiến hành nâng cao khả năng lan HIV lên khoảng 2 lần, cũng như những bệnh lây nhiễm trong đường tình dục bất bình thường, chẳng hạn như bệnh lậu, chlamydia, mụn rộp sinh dục,… bệnh giang mai mắt có thể gây đau đớn mắt, mờ mắt, nhạy cảm cùng ánh sáng hoặc mù lòa. Giang mai tai tác động đến thính giác cùng với thăng bằng của người nhiễm bệnh.

Bệnh giang mai tại người phụ nữ mang bầu nếu như không được chữa trị có thể dẫn đến những biến chứng tiêu cực không tốt, chẳng hạn như thai chết lưu, tử vong sơ sinh, sinh non, nhẹ cân cùng các băn khoăn sức khỏe bẩm sinh, suốt đời đối với trẻ mắc truyền bệnh

Đối tượng nào có khả năng bị bệnh?

Bất kỳ ai cũng có nguy cơ bị giang mai khi phát sinh sinh hoạt tình dục. Một vài tình trạng có khả năng mắc bệnh giang mai cao, bao gồm: (2)

Sinh hoạt tình dục không bảo đảm.

Có số nhiều bạn tình.

Là nam đã có hoạt động tình dục đồng giới (MSM).

Mắc lan truyền HIV.

Quan hệ cùng với người mắc giang mai.

Đã xét nghiệm dương tính cùng với một STI bất bình thường, chẳng hạn như chlamydia, lậu hay herpes.

Phụ nữ mang bầu.

Tiêm chích ma túy.

Xét nghiệm giang mai là gì?

Xét nghiệm giang mai là một tiểu phẫu y khoa được áp dụng để sàng lọc (tầm soát) cùng với nhận diện bệnh giang mai, một qua những bệnh truyền nhiễm qua con đường tình dục (STD) rộng rãi nhất. Bệnh lây lan trong hoạt động tình dục không đảm bảo bằng đường âm đạo, miệng hay hậu môn cùng với người mắc vi khuẩn. Nó cũng sẽ lây lan từ người đang có thai sang con của họ.

Giang mai đều phát triển theo từng thời gian (giai đoạn). Mỗi thời điểm đã có những triệu chứng bất thường nhau cùng với sẽ kéo dài hàng tuần, hàng tháng hoặc có khi phần lớn năm. Ban đầu, những dấu hiệu nhẹ, người nhiễm bệnh không nhìn thấy chúng. Từ đó, chủ yếu người mắc bệnh giang mai mà không biết và lây nhiễm bệnh cho người bất bình thường.

Bệnh giang mai dễ điều trị nhất ở giai đoạn I cùng II của vi rút. Nếu như không được cách chữa cùng với phát triển tới thời kỳ muộn, bệnh sẽ gây tổn hại vĩnh viễn cho sức khỏe. Vấn đề chữa trị vẫn có thể giúp ích song sẽ không đề phòng được vết thương. Qua một vài ít tình huống, giang mai không được chữa có khi sẽ gây tử vong.

Xét nghiệm giang mai giúp chẩn đoán nhiễm trùng tại thời gian I và II, lúc bệnh dễ trị nhất. Nhận thấy và chữa vi rút sớm giúp ngăn ngừa nhiễm bệnh giang mai. Bất cứ ai đã có hoạt động tình dục thường xuyên phải đi xét nghiệm STD cùng STI thường xuyên, bao gồm cả giang mai, nhất là nếu như thuộc nhóm thành phần có nguy cơ cao. Nhận thấy và cách chữa sớm có thể ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.

Mục đích xét nghiệm giang mai để thực hiện gì?

Mục đích xét nghiệm bệnh giang mai chính là tìm ra một số kháng thể nhất định như protein qua mẫu thử nhằm sàng lọc cùng cảm nhận giang mai. Xét nghiệm giang mai đều là xét nghiệm huyết thanh (xét nghiệm máu), có chứa 2 bước.

Qua chủ yếu các trường hợp, bước đầu tiên là xét nghiệm sàng lọc để kiểm tra các kháng thể có liên quan tới vi rút bệnh giang mai. Song các thứ không bình thường có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch tạo ra các kháng thể này, như các bệnh tự miễn, những bệnh viêm nhiễm khác lạ cùng với tiêm căn. Những xét nghiệm sàng lọc giang mai thường bao gồm:

Xét nghiệm reagin huyết tương nhanh (RPR), là xét nghiệm máu.

Xét nghiệm của phòng thí nghiệm tham khảo bệnh hoa liễu (VDRL), sẽ được thực hiện nêu trên máu hay dịch tủy sống.

Nếu như thành quả xét nghiệm sàng lọc cho thấy đang có kháng thể liên quan tới virus bệnh giang mai, người nhiễm bệnh sẽ cần phải xét nghiệm bước thứ 2 để xác nhận xem bản thân có đang bị giang mai hoặc không.

Mục đích của xét nghiệm bước thứ 2 là tìm kiếm các kháng thể mà đội ngũ miễn dịch sinh ra chỉ để chống lại giang mai. Nếu đã có những kháng thể này, nghĩa là người có bệnh hiện đang bị mắc viêm nhiễm giang mai hay bị virus bệnh giang mai đã được điều trị khi trước (tái phát). Các xét nghiệm rộng rãi nhằm kiểm tra kháng thể giang mai bao gồm:

1. Xét nghiệm tầm soát giang mai gián tiếp

Xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu.

Xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu.

2. Xét nghiệm khoảng soát bệnh giang mai trực tiếp

Soi tìm xoắn viêm nhiễm bên trên kính hiển vi.

Xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA-direct fluorescent antibody).

Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAATs - nucleic acid amplification tests)

3. Cách thức xét nghiệm nhanh khoảng soát giang mai

Xét nghiệm nhanh đặc hiệu.

Xét nghiệm nhanh chóng không đặc hiệu.

Xét nghiệm nhanh phối hợp.

Các xét nghiệm tầm soát trực tiếp ít được ứng dụng hơn bởi vì chúng chỉ sẽ được tiến hành trong các phòng thí nghiệm chuyên nghiệp.

Trường hợp nào cần phải tiến hành xét nghiệm giang mai

Tình trạng cần xét nghiệm bệnh giang mai là những tình trạng có triệu chứng hay nghi lây lan. Các triệu chứng thường xuyên hình thành từ 2 - 3 tuần sau khi bị vi rút và bao gồm:

Vết loét nhỏ, không cảm giác đau (săng thương) tại cơ quan sinh dục, hay tại miệng, hậu môn hoặc trực tràng.

Phát ban đỏ, thô ráp, thường xuyên tại lòng bàn tay hoặc lòng bàn tay chân.

Sốt.

Nhức đầu hay đau đớn cơ.

Đau họng.

Sưng hạch.

Mệt mỏi.

Sụt cân.

Rụng tóc đã từng mảng.

Ngay cả lúc chưa có hiện tượng, bạn vẫn nên đi xét nghiệm thường xuyên khi có nguy cơ bị mắc bệnh giang mai cao. Người phụ nữ mang thai cũng là mức độ nên xét nghiệm bệnh giang mai. Trung tâm Kiểm soát cùng tránh Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến cáo tất cả người phụ nữ có mang phải xét nghiệm bệnh giang mai qua lần kiểm tra thai trước hết. Các người có thai có phần nhiều khả năng bị lây giang mai phải được xét nghiệm lại đi tới tuần thứ 28 của thai kỳ và khi sinh.

Các phương án xét nghiệm giang mai được dùng bây giờ

1. Xét nghiệm gián tiếp

Đây là những xét nghiệm huyết thanh từ soát gián tiếp bệnh giang mai, phụ thuộc bên trên mẫu bệnh phẩm là máu của người mang bệnh. Qua một tỷ lệ, chuyên gia chuyên khoa sẽ ứng dụng bệnh phẩm là huyết tương nhằm cảm nhận bệnh giang mai thời gian I và II. Qua tình trạng phải xét nghiệm nhận diện giang mai thần kinh, bệnh giang mai giai đoạn III, có thể sử dụng bệnh phẩm là dịch não tủy. Đang có 2 căn xét nghiệm huyết thanh: xét nghiệm không đặc hiệu cùng xét nghiệm đặc hiệu.

1.1 Xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu

Xét nghiệm RPR (rapid plasma reagin card test) cùng VDRL (venereal disease research laboratory) là 2 dạng xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu được ứng dụng hầu như qua nhận biết cùng với cách điều trị bệnh giang mai. Qua xét nghiệm này, bác sĩ dùng mẫu máu của người nghi lan bệnh giang mai, phân tích và tìm ra kháng thể IgM và IgG kháng lipid. Xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu có thể cho thành quả âm đặc tính hay dương tính giả, do kháng thể IgM cùng IgG kháng lipid sẽ được tìm cảm thấy ở những tình trạng khác, không liên quan tới giang mai như sốt vi-rút cùng các bệnh tự miễn dịch khác.

Trong thời điểm I và II của giang mai, thành quả xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu sẽ là giả (âm tính giả hay dương tiêu chuẩn giả). Chính thông qua đó, người có bệnh đang có hiện tượng bệnh giang mai thời kỳ I nên thực hiện lại xét nghiệm dưới đây 2 - 4 tuần nhằm giúp cho bác sĩ khẳng định tình huống. Lúc thành quả xét nghiệm không đặc hiệu âm đặc tính dưới đây 3 tháng (kể tầm nếu như dấu hiệu nghi lây lan giang mai xuất hiện) sẽ phỏng đoán người nghi nhiễm không bị mắc giang mai.

Bởi vậy bình thường, bác sĩ chuyên khoa không dùng xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu nhằm nhận dạng ban đầu cho bệnh giang mai. Mà xét nghiệm sẽ được áp dụng nhằm theo dõi tình trạng đáp ứng chữa trị đối với phác đồ cách điều trị bệnh.

1.2 Xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu

Xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu gồm có những xét nghiệm chẩn đoán:

TPHA (treponema pallidum hemagglutionation’s assay).

TPPA (treponema pallidum particle agglutination assay).

FTA abs (fluorescent treponema antibody absortion’s test).

Ưu điểm của các xét nghiệm này giúp cho nhìn thấy kháng thể kháng lại kháng nguyên bệnh giang mai. Mặc dù có thể nhận ra kháng nguyên gây bệnh, nhưng kết quả của xét nghiệm này không phân biệt được kháng nguyên trong huyết thanh đã có nên chính xác kháng lại giang mai hoặc những tình huống không khác bất thường (như nhọt cóc).

Liền cả nếu người bệnh được điều trị khỏi bệnh, tầm 85% những tình trạng vẫn cho kết quả xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu dương đặc điểm với bệnh giang mai. Qua đó, phụ thuộc trên kết quả xét nghiệm đặc hiệu, bác sĩ tư vấn không phân biệt được bệnh nhân có đang trong giai đoạn phát bệnh hay không. Xét nghiệm này đều được chỉ định thực hiện khi đã xét nghiệm không đặc hiệu cho thành quả dương đặc điểm.

2. Xét nghiệm trực tiếp

2.1 Xét nghiệm soi tìm xoắn vi khuẩn vừa rồi kính hiển vi

Xét nghiệm soi tìm xoắn virus dưới kính hiển vi nền đen, dùng mẫu bệnh phẩm là dịch tiết tầm niêm mạc, hạch, da,… người nhiễm bệnh. Rồi, mẫu bệnh phẩm được gửi tới tới phòng xét nghiệm và thực thi soi tìm xoắn vi rút giang mai dưới chủng các lò xo di động.

Soi tìm xoắn vi rút bệnh giang mai được xem là nguyên lý xét nghiệm đặc hiệu nhất nhằm nhận dạng bệnh. Để an toàn độ chính xác, xét nghiệm nên được thực hiện ngay sau khi lấy mẫu bệnh phẩm, bởi vì xoắn khuẩn bệnh giang mai không thể tồn ở lâu lúc ra bên ngoài cơ thể người.

Cách thức lấy mẫu cùng với thực thi xét nghiệm soi tìm xoắn nhiễm trùng dưới kính hiển vi phức tạp, phải được thực hiện tại vì nhân viên y tế được tập huấn kỹ thuật này trước đó, quá trình chuyên sâu. Chính qua đó, xét nghiệm này không có đặc điểm sử dụng cao, tuy sẽ tìm ra kháng viêm nhiễm chính xác.

2.2 Xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA-direct fluorescent antibody)

Giống cùng với xét nghiệm soi tìm xoắn nhiễm trùng dưới kính hiển vi, xét nghiệm tìm kháng thể huỳnh quang được tiến hành bằng phương hướng nhuộm huỳnh quang mẫu thử cùng mang đi soi dưới kính hiển vi nền đen. Bởi xoắn vi rút đã được gắn huỳnh quang nếu nhuộm cần phải dễ nhận thấy hơn.

Tuy độ chính xác cao, tuy nhiên xét nghiệm này vẫn không có tiêu chuẩn dùng cao là do tiến hành lấy mẫu cùng xét nghiệm yêu cầu công nghệ cao. Áp dụng dụng cụ thiết bị cùng chế phẩm lưu huỳnh tuyệt đối. Nên không được sử dụng phổ biến tại rất đông những địa chỉ y tế.

2.3 Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAATs - nucleic acid amplification tests)

Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic dùng bệnh phẩm là dịch toát tầm thương tổn da hoặc mô nêu trên cơ thể người mang bệnh. Sau đấy thực thi xét nghiệm tìm kiếm ADN xoắn vi rút T.Pallidum bằng phản ứng khuếch đại gen. Độ chính xác phụ thuộc vào mẫu thử, chi phí cao nên ít khi được chọn lựa.

3. Xét nghiệm nhanh nhận diện giang mai

Xét nghiệm nhanh chóng chẩn đoán giang mai (rapid diagnostic tests) đang được phát triển cùng với dùng số đông ở những địa điểm y tế. Bây giờ, hướng xét nghiệm này được áp dụng nhằm xét nghiệm sàng lọc giang mai trong cộng động, cùng những ưu điểm:

Trả kết quả nhanh qua 10 - 15 phút.

Có thể thực thi được ở cơ sở y tế hầu như tuyến không bình thường nhau.

Độ nhạy cao: 85 - 98%.

Độ đặc hiệu cao (chính xác): 93 - 98%.

Hiện giờ đang có 3 dạng xét nghiệm nhanh chóng được dùng qua cảm nhận giang mai là: xét nghiệm đặc hiệu, xét nghiệm không đặc hiệu và xét nghiệm phối hợp.

3.1 Xét nghiệm nhanh chóng đặc hiệu

Xét nghiệm nhanh chóng đặc hiệu áp dụng kháng nguyên T.Pallidum để nhận ra kháng thể đặc hiệu cùng với bệnh giang mai. Về giải pháp thực thi, hình thức này không khác xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu. Cho kết quả xét nghiệm nhanh chóng dương tiêu chí song không có khả năng xác định được chính xác virus đang có đang quan hệ hay không. Nghĩa là một người bị giang mai đã được điều trị vẫn cho hiệu quả xét nghiệm dương đặc tính. Chính bởi vậy, nếu như test nhanh chóng đặc hiệu cho kết quả dương đặc điểm, cần phải thực hiện thêm xét nghiệm không đặc hiệu để nhận ra chính xác bệnh.

3.2 Xét nghiệm nhanh không đặc hiệu

Xét nghiệm nhanh không đặc hiệu giúp cho phát hiện kháng thể kháng kháng nguyên cardiolipin. Biện pháp sinh hoạt không khác xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu, song đặc điểm áp dụng cao hơn.

3.3 Xét nghiệm nhanh chóng phối hợp đặc hiệu cùng không đặc hiệu

Xét nghiệm nhanh phối hợp cho phép bác sĩ vừa sàng lọc vừa nhận thấy bệnh giang mai ở những mức độ nghi lan. Nhưng, thành quả của xét nghiệm nhanh chóng phối hợp cần được xem xét cùng với kiểm định bởi vì Tổ chức Y tế thế giới trước lúc được dùng rộng rãi.

Ngày 20/02/2025